Ngày 27 tháng 07 năm 2015
Bài tựa tiên phong mộng liên đường chủ nhân
Trong trời đất đã có người tài tình tuyệt thế tất nào cũng có việc khám kha bất bình. Tài mà không được gặp gỡ, tình mà không được hả hê, đó là cái căn nguyên của hai chữ đoạn trường vậy. Thế mà lại có kẻ thương tiếc tài tình, xem thấy việc, trông thấy người, thì còn chịu thế nào được mà không thở than rên rỉ!
Nghĩ là bậc Thánh mới quên được tình, bậc ngu không hiểu tới tình, tình chung chú vào đâu, chính là chung chú vào bọn chứng ta vậy. Cho nên phàm người đá ít tình tất là không có tài, chỉ nửa lòa nửa sáng, sống chết ở trong vòng áo mũ, trong cuộc no say, dù có gặp cái cảnh thanh nhá như hoa thơm buổi sáng, trăng tỏ ban đêm, cũng chỉ trơ trơ như cây, như cá chim vậy.
Còn đến bậc tuyệt thê tai tình, mặt ngọc vẻ hoa, lòng gấm miệng vóc, ngâm thơ liễu nhử, nổi tiếng đài hương, vinh phú ngô đồng khoe tài án bút, nếu bậc quán tuyệt Thiên thu như thế lại gặp được bậc chân chính tài nhân, kết duyên tác hợp, khi thơ ngâm hoa nở, khi đàn gẩy trăng lên, nguồn ái ân trọn nghĩa trăm năm, truyện phong lưu chép thành một lục người đương vào cái cảnh ấy đã không gặp phải nỗi khám kha bất bình, thì người truyền lại việc ấy còn phải đặt ra truyện đoạn trường tân thanh làm gì?
Chỉ vì dịp may dễ lỡ, việc tốt thường sai; tiếng hoan lặng ngắt, còn trơ bóng trúc lung lay; mặt ngọc vắng tênh, chỉ thấy hoa đào hớn hở. Có tài mà không gặp được tài, có tình mà không hả được tình, tài tình đa tuyệt thế, gặp toàn bước khám kha, há không phải là con Tạo đang tay ách người quá lắm ru? Ấy chính là truyện Đoạn trường tân thanh vì đấy mà làm ra vậy.
Truyện Thúy Kiều chép ở trong Lục phong tình ta không cần bàn làm gì. Lục phong tình cũng đã đủ rồi, Cô Như tử xem truyện thấy việc lạ, lại thương tiếc đến những nỗi trắc trở của kẻ có tài, bèn đem dịch ra quốc âm đề là Đoạn trường tân thanh, thành ra cái lục phong tình thì vẫn là cái lục cũ, mà cái tiếng đoạn trường thì lại là cái tiếng mới vậy. Trong mật lập thủy chung lấy bốn chữ “tạo vật đố tài” tóm cả một đời Thúy Kiều : Khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài Châu ngọc, khi nỉ non tiếng nguyệt, khách dưới đèn đắm khúc tiêu tao; khi duyên ưa kim cái, non bề thế bồi; khi đất nổi, ba đào, cử tan tác, khi lầu xanh, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân, khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ mà tê lưỡi. Vui, buồn, tan, hợp, mười mấy năm trời, trong cuốn văn tả ra như hệt, không khác gì một bức tranh vậy xem đến chỗ giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy mà căn duyên vẫn ngỡ chưa rồi; khúc đàn bạc mệnh gảy xong, mà oán hận vẫn còn chưa hả, thì dẫu đời xa người khuất, không được mục kích tận nơi nhưng lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như dứt ruột. Thế thì gọi tên là Đoạn trường tân thanh cũng phải. Ta lúc nhàn đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tố như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghỉ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy, bèn vui mà viết bái tựa này. Thúy Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như tử làm truyện Thúy Kiều, việc tuy khác nhau mà lòng thì lại một, người đời sau thương người đời nay, người đời nay thương người đòi xưa, hai chữ tài tình thật là một cái thông lụy của bọn tài tử khắp trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy.
Ta lấy một thiên mực nhạt, xa viếng nàng Kiều tuy lời văn quê kệch, không đủ sánh với bức dao thiên song đủ tỏ ra rằng cái nợ sầu đời của hai chữ tài tình, tuy khác đời mà chung một dạ. May được noi ở đằng sau quyển Tân Thanh của Tố Như Tử, cũng làm một khúc đoạn trường để than khóc người xưa.
Tháng hai, niên hiệu Minh Mệnh viết ở Thán Hoa hiên đất Hạc Giang.