Nguyễn Nghiễm - Thân phụ Đại thi hào Nguyễn Du có 8 ng­ười vợ và sinh 21 người con ( 12 trai, 9 gái ). Hầu hết những ngư­ời con trai của ông đều có tài  năng, thành đạt trên đư­ờng khoa bảng, công danh trong sự nghiệp Văn chương,Y học, Quân sự, Ngoại giao cũng nh­ư trong sự nghiệp xây dựng đất nước.  Những trong số 12 người con trai ấy thành đạt nhất về khoa bảng và chức tước, được triều đình hết sức trọng dụng đó là Toản Quận công Nguyễn Khản.

 

Nguyễn Khản quê ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Là con trai trưởng của Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm và bà vợ chính thất Đặng Thị Dương  (người khác xã cùng huyện với thân phụ ông). Bà mẹ Nguyễn Khản là con gái thứ hai của Tri phủ Đặng Sỹ Vinh, thông minh, xinh đẹp, lầu thông kinh sử. Mười sáu tuổi lấy chồng và sinh ra Nguyễn Khản vào ngày mồng 3 tháng 3 năm Giáp Dần (16/4/1734). Lúc sinh Nguyễn Khản, theo “ Hoan châu Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả chép”: “ ­trước đó phu nhân chiêm bao thấy d­ưới mặt trời lại có mặt trời khác, rồi bà có thai được 11 tháng thì sinh ra ông ”. Giấc mộng đó là điềm báo trước về sự thành đạt của chồng và con trai bà.

 

Vốn xuất thân từ một gia đình phong kiến đại quý tộc. Lúc bấy giờ có cha đậu Tiến sĩ làm quan cho triều đình nhà Lê. Năm Quý Dậu, đỗ thi Hương, ứng tuyển hợp cách đư­ợc xếp đỗ đầu bảng. Nhân có lệ bổ dụng con các quan nên. ông được nhận chức Viên ngoại bộ lại sau đó vì có tiếng học giỏi được sung chức Thị giảng ở Lạng Quốc Phủ ( Phủ của Chúa Trịnh Sâm) dạy học cho Thế tử Trịnh Sâm. Khoa Canh Thìn (1760) thi Hội đỗ Tiến sĩ lúc đó ông 27 tuổi.  Sau khi Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm lên nối ngôi vì có công giảng dạy chúa lúc còn Thế tử nên ông được thăng lên chức Đại học sỹ kiêm tế tửu Quốc Tử Giám. Năm mậu Tý (1768) có chỉ giao ông kiêm luôn chức Nghiêm Hữu Đội. Với cư­ơng vị đó Nguyễn Khản là một vị quan đồng thời kiêm chức cả văn lẫn võ trong phủ chúa nên các quan trong triều đình hết sức trọng vọng. Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền chép:” Buổi ấy trong hồ trư­ớc nhà riêng của ông có một chồi Sen nở ra hai hoa”. Trịnh V­ương và các quan trong triều đều làm thơ chúc mừng. Một viên quan người huyện Thanh Trì đã tặng bài thơ Tứ tuyệt:

 

Phụ đăng khoa Thế tử đăng khoa

Thế chưởng quân hành Nguyễn tướng gia

Bất tín khả quan tri thưởng nguyệt

Đình đình tranh xuất tịnh đầu hoa

Nghĩa là:

Cha đậu cao con cũng đậu cao

Hai triều giữ chức trọng yếu

Chỉ có nhà t­ướng công họ Nguyễn

Không tin thì cứ xem điềm tốt ở mặt hồ.

Rành rành hiện ra một chồi nở hai hoa.

 

Nhân lúc chúa Trịnh du ngoạn ở Ninh Bình, ông được sai trông coi việc sữa sang lại cảnh trí ở núi Dục Thuý. Nguyễn Khản đã có dịp khảo sát về địa hình ở đây và đã cho đắp đê ngăn mặn, chống lụt bảo, mở rộng đất canh tác cho Trấn Sơn Nam Hạ. Con đê Vân Hải Ninh Bình ngày nay đã được Nguyễn Khản cho đắp vào năm Đinh Dậu 1777. Cũng trong thời gian này xứ Nghệ An hạn hán, lũ lụt, mất mùa xảy ra thư­ờng xuyên, dân chết đói chồng chất. Trư­ớc tình hình như­ vậy, ông đã làm biểu xin triều đình thực hiện 4 điều cơ bản nhằm cứu đói cho xứ Nghệ An.

 

Nên điều quân ở Nghệ An sang Thanh Hoá khai khẩn.

Phóng thích các thuyền bát vận ở các cửa biển

Mở đường  Quy Hợp ( Hư­ơng Khê ) để dân thông thư­ơng với Trấn Ninh (Lào)

- Cho phép dân buôn Trung Hoa bán gạo cho Nghệ An.

 

Những việc ông tấu trình rất chính đáng nên đ­ược chúa Trịnh cho thực hiện vì thế năm đó xứ Nghệ An thoát khỏi nạn đói.

 

Năm 1778 ông đư­ợc gia thăng Tả thị lang Bộ hình và làm Hiệp trấn xứ Sơn Tây- Hưng Hoá kiêm chức thống lĩnh các đạo quân dẹp loạn ở ngoài vùng biên ải. Chính sự được yên ổn đem lại bình yên cho dân bản xứ. Với những việc làm của Nguyển Khản uy thế của ông ngày một lớn được Trịnh Sâm tin cậy giao nhiều trọng trách của triều đình. Ngoài quan hệ chúa thư­ợng bề tôi giữa Trịnh Sâm và Nguyễn Khản còn có mối quan hệ bạn bè thân thiết.

 

Tư­ơng truyền dinh thất của Nguyễn Khản trong nhà trần thiết kế trang hoàng, mỗi bức tranh khung cảnh, tấm khảm là sự ghi chép sự tích truyền kỳ, điển cố thi vị văn chương, dinh thất có hoa viên được trồng các loại hoa thơm, cỏ lạ, có cung thưởng nguyệt, có lầu nghe nhạc, thư viện đọc sách với cách bài trí hài hoà trang nhã cho biết chủ nhân có khiếu thẩm mỹ tinh tế. Chúa Trịnh thường tự cất bước bộ hành tới đây cùng chủ nhân thưởng ngoạn bình phẩm cảnh trí, toạ đàm thơ ca. Trịnh Sâm đã tự tay đề ở ngôi nhà riêng Nguyễn Khản 3 chữ: ” Tâm phúc đường”( Ngôi nhà thân thiết như ruột thịt).

 

Nguyễn Khản được chúa ban ân theo ngự giá đi săn, đi câu, tắm sông thưởng nguyệt, đêm hội Long Trì chỉ riêng Nguyễn Khản là người được ngồi cùng mâm với vợ chồng chúa. Mỗi khi chúa làm thơ đều đọc cho Nguyễn Khản nghe góp ý sửa chữa nếu thấy Nguyễn Khản chư­a góp ý sửa chữa thì chúa coi bài thơ chưa hoàn chỉnh.

 

Chuyện kể rằng có một hôm Nguyễn Khản bỏ buổi chầu, hôm sau bỏ luôn buổi đi câu cùng chúa. Nghe lời nịnh hót cuả một số cận thần. Chúa phạt Nguyễn Khản rồi làm một bài thơ bảo hoạ:

 

Đã phạt 5 đồng bỏ buổi chầu

Lại phạt 5 đồng bỏ buổi câu

Nhắn nhủ ông bay về giữ lấy

Hãy còn phạt nữa chửa tha đâu.

Nguyễn Khản thấy chúa trách cứ chân tình nên hoạ lại:

Váng vất cho nên phải cáo chầu

Phiên chầu còn cáo nữa phiên câu

Mong ơn phạt đến là th­ưởng đến

Ấy của nhà vua chứ của đâu.

 

Đến nay hầu hết tác phẩm của Nguyễn Khản bị thất lạc. Tuy nhiên qua những gì còn lại và lời truyền tụng trong dân gian thì ông là bậc thầy về thơ Quốc âm. Ông đã dịch ( Chinh phụ ngâm ) của Đặng Trần Côn ra chữ Nôm.

 

Trịnh Vư­ơng rất sủng ái tuyên phi Đặng Thị Huệ khi bà sinh con trai Trịnh Vư­ơng có ý dành ngôi Thế tử của con trư­ởng ( Trịnh Khải ) cho (Trịnh Cán). Đư­ợc tin Nguyễn Khản tham mưu đảo chính giúp Thế tử Trịnh Khải. Việc bại lộ Trịnh Vương chỉ gọi ông về triều, những người cùng mưu bị hành hình nhưng Nguyễn Khản nhờ có mối quan hệ như vậy nên chúa tha tội chết.

 

Năm 1782 Trịnh Vương mất, quân lính nổi dậy rước Trịnh Khải lập lên ngôi chúa thay Trịnh cán lấy hiệu Đoan Nam Vương. Trịnh Khải liền cho gọi Nguyễn Khản về triều giao cho làm Thượng thư Bộ Lại tước Toản Quận Công. Đến năm 1783 Nguyễn Khản được phong tước chức Thiếu bảo , cùng năm đó ông được thăng Nhập Thị Tham Tụng ( chức Tể tư­ớng ).

 

Sau 2 năm, Trịnh V­ương lên ngôi các quân lính cậy thế có công phù lập Trịnh  Vương nên rất kiêu hãnh kéo nhau vào phủ chúa đòi phong chức. Nguyễn Khản cùng dự mưu xin chúa bắt chém 7 tên cầm đầu nên bị kiêu binh kéo đến đốt phá nhà riêng. Nguyễn Khản cùng em là Nguyễn Điều trốn lên Sơn Tây gửi mật th­ư cho Trịnh Vương xin hội binh các Trấn để trừ hoạ kiêu binh như­ng việc bị tiết lộ ông cùng Nguyễn Điều xin nghỉ trở về quê nhà. Trịnh Vương thường viết thư thăm hỏi và ban thuốc men tiền bạc, cho lấy thuế 2 chiếc tàu buôn người Bắc Quốc để chi dùng. Đó là những đặc ân chúa dành cho Nguyễn Khản. Đến năm 1787 quân Tây Sơn tiến ra Bắc, Nguyễn Khản trở về Kinh Đô tập hợp triều thần bàn chuyện chống lại quân Tây Sơn, mọi việc đều được Trịnh Vương nghe theo nhưng việc chư­a thành thì ông bị cảm bệnh và mất tại Thăng Long. Triều đình sai quân đến làm tế lễ trước linh cửu và ban cho tên Thuỵ là Hoành Mẫn, hiệu Thuật Hiên Tiên Sinh, phong làm Thượng Đẳng phúc thần. Ông là người đầu tiên được làm Trấn thủ và được phong công thần. Bốn năm sau thi hài ông đư­ợc cải táng về quê nhà ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.

  

Như vậy, trong số những ng­ười con thành đạt của Nguyễn Nghiễm,  Nguyễn Khản là người có tài năng trên nhiều lĩnh vực  và đã có ảnh hưởng rất lớn đến gia đình, dòng họ. Chính ông là chỗ dựa cho một đại gia đình quý tộc - Người đã có công nuôi dưỡng và dìu dắt các em khôn lớn trưởng thành trong đó có nhà thơ Nguyễn Du - Danh nhân văn hoá Thế giới.