Nguyễn Du

Loading...

Truyền thống văn hóa dân tộc, quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa

Khi xác định đặc trưng và bản sắc văn hóa Việt Nam, dù có những điểm nhìn khác nhau, thì nhiều người, nhiều giới đều dễ gặp nhau ở những điểm chung nhất. Đó là các phẩm chất yêu nước, thương nòi, đoàn kết, tôn kính tổ tiên, dũng cảm, tài trí, hiếu học, cần cù, ngay thẳng, tình nghĩa, hòa hiếu, khoan dung...
 
 
1. Truyền thống văn hóa vẻ vang của dân tộc Việt Nam
 
Do vị trí địa lý và các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội… trong suốt hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách do thiên tai, địch họa, nhất là các cuộc chiến tranh xâm lược từ bên ngoài. Truyền thống yêu nước, đoàn kết, bản lĩnh, cốt cách, phẩm giá dân tộc đã giúp chúng ta tồn tại vững vàng và phát triển mạnh mẽ. Quá trình đó cũng xây dựng, hun đúc, phát triển truyền thống văn hóa vẻ vang của dân tộc; bản sắc và sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt Nam.
 
Khi xác định đặc trưng và bản sắc văn hóa Việt Nam, dù có những điểm nhìn khác nhau, thì nhiều người, nhiều giới đều dễ gặp nhau ở những điểm chung nhất. Đó là các phẩm chất yêu nước, thương nòi, đoàn kết, tôn kính tổ tiên, dũng cảm, tài trí, hiếu học, cần cù, ngay thẳng, tình nghĩa, hòa hiếu, khoan dung… Từ ngày có Đảng, nhất là từ khi đất nước ta thoát khỏi ách nô dịch của chế độ phong kiến, thực dân, xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa, văn hóa Việt Nam cùng với các yếu tố đậm đà bản sắc dân tộc đã có, còn được bổ sung và phát triển thêm các phẩm chất mới mang tính tiên tiến. Tiên tiến về trình độ học vấn, về dân trí, trình độ khoa học và công nghệ; tiên tiến về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống; tiên tiến về sự kết hợp giữa hiện đại và truyền thống, giữa hình thức và nội dung; giữa văn hiến dân tộc và chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
 
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tâm niệm: Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân
 
Bản sắc dân tộc về văn hóa là sự thống nhất trong tính đa dạng và phong phú của văn hóa các dân tộc, tôn giáo, vùng miền; là những phẩm chất được xây dựng, sáng tạo, chắt lọc, kế thừa, phát huy từ đời này sang đời khác, tạo nên sức sống mãnh liệt và bất diệt của dân tộc.
 
2. Đường lối, quan điểm về văn hóa của ta từ ngày thành lập Đảng đến Đề cương văn hóa 1943
 
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng ta do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập và ra đời. Những năm sau đó, dù phải hoạt động bí mật với muôn vàn gian khổ, hy sinh, năm 1943, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng vận dụng các quan điểm của Chủ nghĩa Mác, của Đảng ta và của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đã soạn thảo Đề cương Văn hóa Việt Nam (còn gọi Đề cương Văn hóa 1943). Lần đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam nêu cương lĩnh văn hóa, nội dung, tính chất, tổ chức, định hướng phát triển của một cuộc cách mạng văn hóa chỉ có thể gắn với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và tương lai của nền văn hóa ấy sau khi cách mạng đã thành công. Đề cương Văn hóa Việt Nam (1943) xác định xây dựng nền văn hóa Việt Nam (bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật), “… sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”; khẳng định ba nguyên tắc: “Dân tộc hóa”; “Đại chúng hóa”; “Khoa học hóa”. “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa)”, “Sự nghiệp văn hóa là của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; khẳng định rõ “đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hóa tiên phong”. Tính chất nền văn hóa mới Việt Nam: dân tộc về hình thức, tân dân chủ về nội dung.
 
3. Văn hóa Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945
 
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (ngày 3.9.1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong đó có 2 nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hóa: Một là, cùng với diệt giặc đói phải diệt giặc dốt. Hai là, phải giáo dục tinh thần cho nhân dân. Đây là hai nhiệm vụ giản dị nhưng lại hết sức quan trọng ở tầm nhìn, tầm nắm bắt yêu cầu của cách mạng, lấy dân làm gốc. Đầu năm 1946, Ban Trung ương vận động đời sống mới được thành lập với sự tham gia của nhiều nhân vật có uy tín như Trần Huy Liệu, Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hoè..., Tổng thư ký của Ban là nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.
 
Đường lối văn hóa kháng chiến dần hình thành trong Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” ra ngày 25.11.1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng; thể hiện rõ trong bức thư “Nhiệm vụ văn hóa Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước hiện nay” của đồng chí Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 16.11.1946. Trong bộn bề công việc của Nhà nước chống lại giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ Nhất khai mạc ngày 24.11.1946 tại Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội. Theo kế hoạch, Hội nghị dự định làm việc trong 3 ngày, nhưng do tình hình chiến sự căng thẳng tại Hải Phòng và đang có nguy cơ bùng nổ sớm ở Hà Nội nên đã bế mạc ngay sau một ngày làm việc sôi nổi, khẩn trương, hết sức bổ ích, mang đậm dấu ấn lịch sử. Hội nghị đón tiếp hơn 200 nhà hoạt động văn hóa tiêu biểu trong cả nước tham dự. Trong diễn văn khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nền văn hóa mới của nước nhà lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”. Từ cách đặt vấn đề “Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ”, Hồ Chí Minh khẳng định: “Văn hóa liên lạc mật thiết với chính trị. Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Tâm lý của ta lại còn muốn lấy tự do, độc lập làm gốc. Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Đồng thời, phải làm thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng mình. Đối với xã hội, văn hóa phải làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam, từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hạnh phúc của mình nên được hưởng. Số phận dân ta là ở trong tay ta. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ”.
 
Người tha thiết đề nghị:”Tôi mong chúng ta đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, và sáng tạo”. Báo cáo của Uỷ ban Vận động Văn hóa toàn quốc nêu bật những thành tích đã đạt được, đồng thời kêu gọi tăng cường đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau và đề ra nhiệm vụ của văn hóa Việt Nam trong tình hình mới. Hội nghị bầu Uỷ ban văn hóa toàn quốc gồm 15 uỷ viên chính thức và 5 uỷ viên dự khuyết. Thành công to lớn của Hội nghị đã đặt cơ sở cho nền văn hóa mới Việt Nam.
 
Tháng 3.1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tài liệu “Đời sống mới” giải thích rất dễ hiểu những vấn đề thiết thực trong đường lối, chủ trương về văn hóa của Đảng và Nhà nước ta. Vẫn trong những năm tháng đầy hy sinh gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo tổ chức Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai, họp từ ngày 16 đến 20.7.1948 tại Việt Bắc. Trong thư gửi các đại biểu tham dự Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc vĩ đại của dân tộc ta, văn hóa gánh một phần rất quan trọng. Từ ngày chính quyền dân chủ thành lập đến nay, các nhà văn hóa ta đã cố gắng và đã có thành tích. Song từ nay trở đi chúng ta cần phải xây dựng một nền văn hóa kháng chiến kiến quốc của toàn dân. Muốn đi đến kết quả đó, các nhà văn hóa ta cần tổ chức chặt chẽ và đi sâu vào quần chúng. Nhiệm vụ của văn hóa chẳng những để cổ động tinh thần và lực lượng kháng chiến kiến quốc của quốc dân, mà cũng phải nêu rõ những thành tích kháng chiến kiến quốc vĩ đại của ta cho thế giới. Các nhà văn hóa ta phải có những tác phẩm xứng đáng chẳng những để biểu dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây giờ mà còn để lưu truyền cả lịch sử oanh liệt kháng chiến, kiến quốc cho hậu thế”.
 
Ngày 18.7.1948, thay mặt Đảng ta, đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày Báo cáo quan trọng tại Hội nghị với tên gọi “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam”. Báo cáo hệ thống hóa, cụ thể hóa và phát triển các quan điểm, nguyên tắc, phương châm của Đề cương văn hóa 1943 của Đảng, có giá trị như là Cương lĩnh văn hóa của Đảng thời kỳ kháng chiến, kiến quốc. Báo cáo có 7 phần quan trọng: (1) Văn hóa và xã hội; (2) Lập trường văn hóa mác xít; (3) Văn hóa Việt Nam xưa và nay; (4) Tính chất và nhiệm vụ văn hóa dân chủ mới Việt Nam; (5) Mặt trận văn hóa thống nhất trong mặt trận dân tộc thống nhất; (6) Văn hóa Việt Nam trong mặt trận văn hóa dân chủ thế giới; (7) Mấy vấn đề cụ thể trong văn học.
 
Báo cáo nhấn mạnh 6 nhiệm vụ chủ yếu của văn hóa: (1) Xác định mối quan hệ giữa văn hóa và cách mạng giải phóng dân tộc, cổ động văn hóa cứu quốc; (2) Xây dựng nền văn hóa dân chủ mới Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng mà khẩu hiệu thiết thực lúc này là dân tộc, dân chủ; (3) Tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học, trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ; (4) Giáo dục lại nhân dân, cổ động thực hành đời sống mới; (5) Phát triển cái hay trong văn hóa dân tộc, đồng thời bài trừ cái xấu xa hủ bại, ngăn ngừa sức thâm nhập của tàn dư văn hóa thực dân, phản động, học cái hay, cái tốt của văn hóa thế giới; (6) Hình thành đội ngũ trí thức mới đóng góp tích cực cho công cuộc kháng chiến kiến quốc và cho cách mạng Việt Nam.
 
Để xây dựng nền văn hóa mới, rất cần có người trí thức, người nghệ sĩ và tổ chức văn hóa, văn nghệ mới. Thái độ của người trí thức, văn nghệ sĩ Việt Nam mới là “1- Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với kháng chiến; không thoả hiệp với tư tưởng và văn hóa phản động, không trung lập, không giữ thái độ bàng quan. 2- Yêu khoa học, lấy khoa học Mác xít làm kim chỉ nam cho hành động, biết và làm đi đôi, lý luận và thực tiễn kết hợp. 3- Một lòng một dạ phục vụ nhân dân; gần gũi quần chúng công, nông, binh, cảm thông với quần chúng, học hỏi nhân dân, giáo dục, dìu dắt nhân dân. Đó là thái độ chân chính của các chiến sĩ văn hóa mới chúng ta, và cũng là bí quyết thành công của chúng ta” .
 
Ba ngày sau Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai là Hội nghị Văn nghệ toàn quốc được tổ chức từ ngày 23 đến 25.7.1948. Hơn 80 văn nghệ sĩ đại biểu cho các ngành văn học, sân khấu, âm nhạc, kiến trúc, mỹ thuật từ các nẻo đường kháng chiến đã về dự Hội nghị. Tại sự kiện quan trọng này, Hội Văn nghệ Việt Nam được thành lập, là sự tiếp nối tốt đẹp Hội Văn hóa cứu quốc được thành lập năm 1943. Lãnh đạo Hội và Ban chấp hành của Hội ra mắt, với sự tham gia lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng, Trưởng ban Tuyên truyền của Trung ương; đồng chí Tố Hữu được Trung ương giao trực tiếp tổ chức chỉ đạo công tác văn nghệ; Tiểu ban Văn nghệ còn có các đồng chí Trần Huy Liệu, Nguyễn Khánh Toàn, Hải Triều, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Nam Cao, Nguyễn Sơn… Sau Hội nghị, các văn nghệ sĩ nô nức đi vào cuộc kháng chiến với khẩu hiệu “Cách mạng hóa tư tưởng, quần chúng hóa sinh hoạt”.
 
Từ năm 1950 trở đi, mô hình xây dựng văn hóa kháng chiến có sự điều chỉnh, hình thức “hội nghị văn hóa toàn quốc” không còn được sử dụng. Nhân Triển lãm hội họa (năm 1951), trong thư gửi các họa sĩ, Hồ Chí Minh khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Người nhấn mạnh vai trò xung kích của văn hóa, văn nghệ trong sứ mệnh giải phóng dân tộc. Văn hóa cùng với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự... phải tạo thành những mặt trận có sức mạnh to lớn trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. “Văn hóa nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị”; “chính trị, kinh tế, văn hóa đều “phải coi là quan trọng ngang nhau”.
 
Văn kiện Đại hội III của Đảng (9.1960) xác định đường lối xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc. Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng xác định văn hóa, tư tưởng là một cuộc cách mạng, tiến hành đồng thời gắn bó chặt chẽ với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật. Đường lối tiến hành cuộc cách mạng văn hóa, tư tưởng, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa mang đặc trưng dân tộc, khoa học, đại chúng tiếp tục được phát triển, bổ sung trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12.1976) xác định xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hóa mới... tiến hành đấu tranh chống tư tưởng và sản phẩm văn hóa phản động, độc hại. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3.1982) chỉ rõ nền văn hóa mới mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đại hội V cũng trình bày rất đầy đủ nội hàm khái niệm “Con người mới xã hội chủ nghĩa” và đưa ra phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm văn hóa”.
 
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
 
Trong cuốn sổ ghi chép những bài thơ do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác trong lao tù của chế độ Tưởng Giới Thạch (1942-1943) sau này tập hợp lại thành tập thơ Nhật ký trong tù, Người nêu định nghĩa giản dị mà sâu sắc về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
 
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”. Hồ Chí Minh đề ra chủ trương diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, khơi dậy phong trào bình dân học vụ, bổ túc văn hóa để dồn sức xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí. Hồ Chí Minh khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Người nhấn mạnh: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”. Nói về Đảng và lý tưởng của Đảng, Người nhắc nhở: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng… Mọi công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng. Phải đem tinh thần yêu nước và cần, kiệm, liêm, chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và nhân dân…”. Về vai trò, trách nhiệm của Chính phủ, Người nhấn mạnh: “Chúng ta cần phải hiểu rằng các cơ quan của Chính phủ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Người lưu ý: “Trong các hoạt động của chúng ta, nào chính trị, nào kinh tế, nào quân sự, văn hóa, chắc không thiếu những người có năng lực, có sáng kiến… Nhưng vì cách lãnh đạo của ta còn kém, thói quan liêu còn nồng cho nên có những người như thế cũng bị dìm xuống, không được cất nhắc. Muốn tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo. Thí dụ: “bắt buộc trong mỗi ngành phải thiết thực báo cáo và cất nhắc nhân tài”. Người nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”, trong đó tư cách của người cách mạng phải được đặt lên hàng đầu. Văn hóa được Người quan niệm là một trong bốn lĩnh vực cấu thành đời sống xã hội và văn hóa cần phải được coi trọng ngang với chính trị, kinh tế, xã hội. Tư tưởng của Người một mặt nhấn mạnh vai trò quan trọng của văn hóa, ngang với các lĩnh vực trọng yếu khác, mặt khác phê phán quan niệm coi nhẹ công tác văn hóa, không thấy vai trò nền tảng, vai trò sáng tạo, dẫn dắt của văn hóa. Hồ Chí Minh khẳng định “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Để hiểu đúng và làm được điều hệ trọng này, theo Người phải: “1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường; 2- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng; 3- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội; 4- Xây dựng chính trị: dân quyền; 5-Xây dựng kinh tế”. Như vậy, xây dựng văn hóa là tiến hành xây dựng đồng bộ và toàn diện về tâm lý, luân lý, xã hội, về chính trị và kinh tế. Hồ Chí Minh cũng cho rằng: Để văn hóa soi đường cho quốc dân đi, mỗi cán bộ, đảng viên ở các cấp, các ngành phải là tấm gương để mọi người noi theo: “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Người chỉ rõ “Văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận”, “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị”, cần đoàn kết tập hợp đội ngũ trí thức, những nhà văn hóa và toàn quân, toàn dân phấn đấu cho sự nghiệp “phò chính, trừ tà”, góp phần quan trọng vào việc nhân đạo hóa con người, cổ vũ con người vươn tới chân, thiện, mỹ. Văn hóa phải “gắn liền với lao động, sản xuất, văn hóa xa đời sống, xa lao động là văn hóa suông”. Văn hóa phải thấu hiểu và đi sâu vào đời sống, “bày tỏ được cái tinh thần anh dũng và kiên quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao tinh thần ấy”. Hồ Chí Minh cho rằng: “Để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Dân tộc bị áp bức, thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng”. Hồ Chí Minh nêu một yêu cầu cơ bản: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa; muốn có con người xã hội chủ nghĩa phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, muốn có tư tưởng xã hội chủ nghĩa phải gột rửa tư tưởng cá nhân chủ nghĩa”, vì theo Người, chủ nghĩa cá nhân là nguyên nhân đẻ ra các căn bệnh làm hại đến sự phát triển của đất nước.
 
 
Theo  PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ/Báo Văn hoá
 
Audio Guide
Tham quan ảo 3D
Nghiên cứu - Thảo luận

Tìm hiểu Kim Vân Kiều tân truyện ở Thư viện Vương quốc Anh

Trước đây 20 năm, Kim Vân Kiều tân truyện (còn gọi là Kim Vân Kiều hội bản) đã được giáo sư Nguyễn Văn Hoàn(1) và giáo sư Trần Nghĩa(2) giới thiệu sơ qua hoặc kỹ hơn chút ít. Bản này được đánh giá là “bản Kiều quý”, “chưa có ở nước ta”, tuy nhiên chưa ai đi sâu tìm hiểu. Điều đặc biệt ở bản này là có 146 trang thì trang nào cũng có một tranh minh họa chiếm nửa dưới trang, nửa trên dành in lời Tiểu dẫn (trang 2), một đoạn Truyện Kiều, chú thích bằng chữ Hán và lời tóm tắt bằng chữ Nôm nội dung đoạn Truyện Kiều đó. Sách không ghi tên tác giả cùng năm, nơi ra đời, chỉ thấy “trang bìa trong của sách có ghi mấy chữ tiếng Ý, viết bằng bút sắt ‘Anno 1894’; trang cuối sách ghi dòng chữ tiếng Pháp, cũng viết bằng bút sắt: ‘Paul Pelliot, acheté 432 Fr, Porte Sully, Juin 1929, No 518’. Nếu những ghi chép trên đây là chính xác thì các bản vẽ được hoàn thành vào năm 1894; đến năm 1929, Paul Pelliot, một học giả người Pháp mua được và cuối cùng, sách được nhập vào kho Thư viện Vương quốc Anh”(3). Có điều, tranh minh họa thì tôi cảm thấy có phần ngờ do người Trung Quốc vẽ.

Xem tiếp
Di sản văn hóa

Thư viện phim tư liệu

Bộ đếm lượt truy cập

di tich Nguyen Du

Liên kết Website

Bản quyền © 2015 Nguyễn Du - Danh nhân văn hóa thế giới - Ban quản lý khu di tích Nguyễn Du.
Địa chỉ: Xã Tiên Điền - huyện Nghi Xuân - Tỉnh Hà Tĩnh.
ĐT: 02393 826 599        Đăng ký tham quan: 02393 825 133
Email: [email protected]
Chịu trách nhiệm nội dung: Ban quản lý khu di tích Nguyễn Du
Nêu rõ nguồn nguyendu.org.vn khi đăng bài từ website này.