Nguyễn Du

Loading...

Một số từ địa phương Nghệ Tĩnh trong TRUYỆN KIỀU

Nhà văn Nga M.Gorki từng nói: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Văn chương là loại hình nghệ thuật lấy ngôn từ làm chất liệu xây dựng hình tượng, phản ánh đời sống. Tài năng và sức sáng tạo của một nhà văn thể hiện ở trình độ sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt những nội dung tư tưởng tình cảm thẩm mĩ. Về phương diện này, Truyện Kiều là mẫu mực có một không hai của văn học Việt Nam thời trung đại, là hiện tượng tập đại thành của ngôn ngữ thơ ca truyền thống. Đạt đến thành tựu rực rỡ như vậy là bởi Nguyễn Du đã kế thừa, phát huy được những khuynh hướng sáng tạo ngôn ngữ khác biệt, độc đáo, trong đó có việc sử dụng tiếng địa phương Nghệ Tĩnh.
 
Mỗi vùng, miền trên đất nước Việt có bản sắc văn hóa riêng, trong đó có tiếng địa phương (phương ngữ). Ngôn ngữ địa phương là một dạng biến thể của ngôn ngữ theo khu vực. Tiếng Nghệ Tĩnh (khu vực gồm hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh) là một trong những phương ngữ độc đáo.  
 
 Với bậc thầy về sử dụng ngôn từ, Nguyễn Du đã khéo léo mang từ ngữ địa phương, tiếng nói của miền quê vào trong kiệt tác Truyện Kiều tạo nên sự giản dị, hài hòa, mộc mạc.
 
Trong Truyện Kiều, số lượng từ địa phương Nghệ Tĩnh được Nguyễn Du đưa vào không nhiều nhưng nó lại có khả năng biểu đạt nội dung và nghệ thuật cao. Với phạm vi bài viết chúng tôi chỉ khảo sát một số từ địa phương trong tác phẩm.
 
Từ địa phương được sử dụng với tần số cao nhất trong Truyện Kiều là từ  chi. Theo khảo sát của chúng tôi từ chi được tác giả sử dụng 63 lần và trong mỗi văn cảnh thì ý nghĩa của nó có sự thay đổi. Chi là tiếng địa phương Nghệ Tĩnh tương ứng với từ trong ngôn ngữ toàn dân thường được sử dụng trong câu hỏi.
 
“Phũ phàng chi bấy hóa công
Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha”
 
Hay:                                
 
“Ông tơ ghét bỏ chi nhau
Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi”
 
Và:                               
 
 “Cớ gì ngồi nhẫn tàn canh
Nỗi riêng còn mắc với tình chi đây”
“Tiểu thư lại thét lấy nàng
Cuộc vui, gảy khúc đoạn trường ấy chi”
 
Từ chi được sử dụng nhuần nhị xóa tan sự cách biệt giữa ngôn ngữ toàn dân và ngôn ngữ bác học.
 
Trong Truyện Kiều, từ chi không chỉ được sử dụng trong câu nghi vấn mà trong một số trường hợp từ chi chủ yếu để biểu lộ sắc thái tình cảm, cảm xúc.
 
Đó là chút băn khoăn, tiếc nuối, day dứt của Thúy Kiều:
 
“Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không”
 
Hay là sự thở than:
 
“Ông tơ ghét bỏ chi nhau
Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi”
 
Hay tâm trạng buồn bã, thất vọng trong cuộc gặp gỡ với Thúc Sinh:
 
“Chúa xuân đã đành có nơi
Ngắn ngày, thôi chớ dài lời làm chi”
 
Và tiếng thở than cho thân phận:
 
“Nghĩ đời mà ngán cho đời
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”
 
Để miêu tả sự ghê tởm của mụ chủ nhà chứa, Nguyễn Du viết:
 
“Thoắt trông nhờn nhợt màu da
Ăn chi cao lớn đẫy đà làm sao”
 
Ăn chi cho thấy sự bòn rút trên sức lao động và cả thể xác của người khác.
 
Trong phương ngữ Nghệ Tĩnh có từ dùng trong xưng gọi. Từ trong tiếng Nghệ Tĩnh thường dùng đối với những người phụ nữ đã có gia đình, con cái, cũng có lúc dùng để chỉ ngườii phụ nữ nào đó với ý coi thường. Khi đưa vào trong Truyện Kiều, từ cũng được sử dụng để xưng gọi:
 
“Bên thì mấy ả mày ngài”
 
Nhưng ngoài mục đích xưng goi, từ trong Truyện Kiều còn mang nhiều sắc thái ngữ nghĩa. Có lúc từ được dùng với thái độ mỉa mai:
 
"Bên thì mấy ả mày ngài
 
Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi”
 
Đó là sự thân thiết, gần gũi trong xưng hô: “Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này”hay biểu lộ thái độ đề cao, trân trọng: “Đầu lòng hai ả tố nga” hoặc “Lại thua ả Lý bán mình hay sao”. Như vậy, trong trường hợp này từ địa phương tạo nên các biến thể từ vựng – ngữ nghĩa đối lập với từ toàn dân về sắc thái biểu cảm.Từ ả  còn thể hiện thái độ, quan niệm, tình cảm của chủ thể sáng tạo.
 
Trong tiếng nói đời sống người dân Nghệ Tĩnh có đại từ mụ. Mụ là từ chỉ người đàn bà đã có tuổi thường hàm ý coi khinh. Tuy nhiên, trong tiếng nói của người dân Nghệ Tĩnh, từ mụ thường được xưng hô trong giao tiếp bình thường. Chẳng hạn, trong bài thơ Mẹ Suốt, nhà thơ Tố Hữu viết:
 
“Coi chừng sóng lớn, gió to
Màn xanh đây mụ, đắp chi kín mình”
 
Khi đi vào Truyện Kiều, từ mụ thường được Nguyễn Du sử dụng với hàm có coi khinh.
 
Đó là hình ảnh nhân vật Tú Bà:
 
“Mụ nghe nàng nói hay tình
Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên”
 
Hay:
 
Mụ càng tô lục, chuốt hồng
Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê”
 
Ngoài ra trong Truyện Kiều Nguyễn Du còn sử dụng một số các từ địa phương như: từ nghé trong câu: “Khách đà lên ngựa người còn nghé theo”, hay từ mặt mo trong “Mặt mo đã thấy Sở Khanh lẻn vào” hay từ như dậm, giàm trong câu: “Này ai đan dậm, giật giàm bỗng dưng”…
 
Trong Truyện Kiều, từ địa phương Nghệ Tĩnh chủ yếu là lớp từ đơn tiết. Từ đơn là lớp từ chủ yếu thuộc vốn từ cơ bản trong các phương ngữ và trong mọi ngôn ngữ thường chỉ sự vật, tính chất, hoạt động… được dùng nhiều quen thuộc. Vì vậy, sự xuất hiện của từ địa phương trong Truyện Kiều chẳng những không cản trở sự tiếp nhận của người đọc mà còn tạo sắc thái biểu cảm, mang tính địa phương, gần gũi, thân mật, đồng thời vẫn giữ được âm hưởng, giọng điệu, cấu trúc của câu thơ lục bát.
 
Quãng thời gian Nguyễn Du sống trên mảnh đất Hà Tĩnh không nhiều. Dòng dõi họ Nguyễn Tiên Điền – dòng họ “trâm anh thế phiệt”, nổi tiếng về văn chương, khoa bảng dưới thời Lê Trung Hưng thẩm thấu, nuôi dưỡng tâm hồn Đại thi hào Nguyễn Du. Hơn thế, những lần tham gia sinh hoạt văn nghệ dân gian với các phường vải, phường thủ công ở Nghệ Tĩnh đã giúp Nguyễn Du lĩnh hội vốn ngôn ngữ địa phương để đưa vào tác phẩm, khai thác khả năng biểu đạt và biểu cảm của vốn từ địa phương. Vốn từ địa phương Nghệ Tĩnh góp phần giúp Nguyễn Du thành công trong việc khắc họa bức tranh tâm lí, những trải nghiệm hiện sinh và thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc.
 
Nguyễn Du là người có vốn kiến thức Hán học uyên thâm. Trong Truyện Kiều, nhà thơ sử dụng nhiều chữ Hán, điển cố, ngôn ngữ của Nho giáo, Phật giáo một cách sáng tạo. Tinh thông Hán học nhưng nhà thơ thiên tài nhận thức được rằng: tâm hồn và cuộc sống Việt Nam chỉ có thể biểu hiện chân thực, sinh động sâu sắc qua tiếng nói trong sáng, đẹp đẽ, phong phú của dân tộc. Nguyễn Du rất có ý thức trong việc sử dụng từ địa phương Nghệ Tĩnh để tiếng nói Nghệ Tĩnh đi vào Truyện Kiều dung dị, mộc mạc, tự nhiên mà sâu sắc.
 
 

Theo Trần Quỳnh Trang/Tạp chí Văn hóa Nghệ An

 

Audio Guide
Tham quan ảo 3D
Nghiên cứu - Thảo luận
Di sản văn hóa

Đôi điều về nước sạnh của người Chăm Pa xưa qua hệ thống giếng cổ dọc bờ biển miền trung Việt Nam

Không nhiều người biết rằng, về cơ bản, toàn bộ miền Trung Việt Nam (từ tỉnh Quảng Bình cho tới tỉnh Bình Thuận), trước đây chưa lâu, từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 18 đã dần trở thành lãnh thổ của Đại Việt (tên của Việt Nam thời đó). Gần như ở mọi nơi trên thế giới này văn hóa của những kẻ chiến bại không bao giờ mất mà, dường như, nó còn sống dậy rất mãnh liệt để cả nhân loại phải chiêm ngưỡng và nhắc đến. Chăm Pa, may thay, đã là như vậy. Người ta đã biết nhiều đến các đền tháp, những tác phẩm điêu khắc, tượng tròn bằng đá hay đất nung trên khắp miền Trung Việt Nam, những địa danh như Po Kluang Galai, Mỹ Sơn, Po Nagar, Po Dam… nghe đã rất quen và không ít người đã hơn một lần ghé thăm. Nhưng văn hóa Chăm Pa không chỉ là kiệt tác của kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc. Còn nhiều thành tựu khác như đồ gốm, đất nung, những viên gạch trên những ngôi đền tháp như thách thức thời gian và khí hậu nghiệt ngã, nghề dệt vải trồng bông… Bên cạnh đó kĩ năng tuyệt vời về tìm các mạch ngầm nước ngọt và kỹ thuật khai thác nó để tạo nên cuộc sống, nơi mà thiên nhiên hiếm khi chiều chuộng con người.

Xem tiếp

Thư viện phim tư liệu

Bộ đếm lượt truy cập

di tich Nguyen Du

Liên kết Website

Bản quyền © 2015 Nguyễn Du - Danh nhân văn hóa thế giới - Ban quản lý khu di tích Nguyễn Du.
Địa chỉ: Xã Tiên Điền - huyện Nghi Xuân - Tỉnh Hà Tĩnh.
ĐT: 02393 826 599        Đăng ký tham quan: 02393 825 133
Email: [email protected]
Chịu trách nhiệm nội dung: Ban quản lý khu di tích Nguyễn Du
Nêu rõ nguồn nguyendu.org.vn khi đăng bài từ website này.