Nguyễn Du

Loading...

Đền Gôi Vị nơi lưu giữ một số hiện vật quý.

Đền Gôi Vị (còn được gọi là Đền bà Tiết Nghĩa) thuộc tổng An Ấp, huyện Hương Sơn (nay là xã Sơn Hòa, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh) được lập từ năm  Đinh Dậu (1717), niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 13, đời vua Lê Dụ Tông. Ngôi đền thờ 4 vị phúc thần dòng họ Đinh Nho: Tiến sĩ Đinh Nho Công, tiến sĩ Đinh Nho Hoàn, tổng binh hương nghĩa hầu Đinh Nho Côn, bà tiết phụ Phan Thị Viên, vợ thứ của tiến sĩ Đinh Nho Hoàn và đây còn là nơi lưu giữ một số hiện vật độc đáo.
 
 
 
Nơi thờ 4 vị phúc thần.
 
Đinh Nho Công (1637-1695), đỗ Đệ tam Giáp đồng tiến sĩ năm Canh Tuất (1670), niên hiệu Cảnh Trị thứ 8, đời vua Lê Huyền Tông. Từng giữ chức Tham chính xứ Sơn Nam, sau về kinh giữ chức Thiêm đô ngự sử. Khi qua đời được nhà vua phong “Anh nghị Đại Vương, dưới triều Nguyễn  được gia tặng " Đoan túc dực bảo trung hưng phúc thần”

Con Trai thứ ba của tiến sĩ Đinh Nho Công là Đinh Nho Hoàn (1671-1715), tự Tồn Phác, hiệu Mặc Trai, ông đậu Đệ nhị Giáp tiến sĩ năm Canh Thìn (1700), niên hiệu Chính Hòa thứ 21, đời vua Hy Tông.  Ông làm đến các chức vụ: Hậu bổ hàn lâm viện, Tham chính xứ Sơn Tây, Đốc trấn phủ Cao Bình (Cao Bằng), Hữu Thị lang Bộ công, Thượng bảo tự khanh. Năm Ất Mùi, Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715), ông được cử làm Phó sứ sang triều cống nhà Thanh (Trung Quốc), trên đường đi bị trọng bệnh mất, được truy tặng Lại bộ Tả Thị lang (hàm Chánh tam phẩm), được tấn phong “Đắc Đạt Đại Vương” và triều Nguyễn gia phong “Tuấn hưng lượng trực Đoan túc dực Bảo Trung hưng Phúc Thần”.

Người con trai thứ sáu của tiến sĩ Đinh Nho Công là Tổng binh hương nghĩa hầu Đinh Nho Côn (?-?). Ông làm  tri huyện phủ La Sơn, quản quân đốc lĩnh ở Đông Thành, Lương Sơn. Sau khi mất được nhà vua truy phong “Đoan túc dực Bảo Trung hưng Phúc Thần”.

Người con dâu của tiến sĩ Đinh Nho Công là bà tiết phụ Phan Thị Viên (?-1716), vợ thứ của Đinh Nho Hoàn. Chuyện kể rằng, thời Lê ở xã An Ấp có người thiếp yêu của Hoàng Giáp Đinh Nho Hoàn, dung mạo trong trắng trang nghiêm. Khi đang niên thiếu đã giỏi âm luật, thông thuộc văn chương. Năm 15 tuổi, Đinh Nho Hoàn cưới làm thiếp, mới vừa hai năm tình sâu chưa báo đáp thì một ngày Đinh Nho Hoàn vâng mệnh đi sứ Bắc quốc, nàng bịn rịn theo tiễn nguyện lấy chữ trinh giữ đạo làm vợ và ông cững lưu luyến nhớ nhung khôn xiết. Trước khi chia tay ông tặng nàng một tấm áo lụa. Hành trình thấm thoắt, ngày tháng thoi đưa Đinh Nho Hoàn bị trọng bệnh và mất trên đường đi sứ, được tin nàng muốn chết theo. Đến khi đưa linh cữu ông về táng, nàng dùng chiếc áo lụa ông biếu năm xưa mà tuẫn tiết. Việc bà tuẫn tiết, vua Lê  rất cảm phục trước sự thủy chung son sắt của bà nên đã phong Phúc Thần và cho lập đền thờ bà, ban bảng vàng khắc chữ “Tiết phụ môn” treo ở Đền Gôi Vị - Do vậy đền Gôi VỊ còn có tên gọi khác là Đền bà Tiết Nghĩa.
 
Một số hiện vật độc đáo.
 
Khánh đá Mặc Trai.
 
 
Khánh đá Mặc Trai do chính Đinh Nho Hoàn soạn khắc vào năm Nhâm Thìn (1712). Khánh được treo trên giá cột bằng đá, trên cột đá có lạc khoản ghi năm Cảnh Hưng thứ 17 (1756). Mặt khánh có bài minh của ông bằng chữ Hán, nội dung lược dịch nội dung: " Phàm mọi vật ở trạng thái yên tĩnh thì câm lặng nhưng gõ vào lại kêu, âm thanh phát ra mỗi vật mỗi khác. Âm thanh của khánh trong trẻo, có tiết tấu, tựa như có cái cao thượng của con người. Vì yêu thích những âm thanh ấy nên mới làm khánh Mặc Trai treo ở phía trái Am để tăng thêm ý chí".
 
Bia đá.
 
 
Có 3 bia đá làm theo hình trụ. Bia thứ nhất (bên trái) được khắc dựng năm Kỷ Sửu (1709), nội dung do ông Đinh Nho Hoàn soạn khi ông làm Đốc trấn Cao Bình (Cao Bằng) về quê để "huân mộc trùng tu" (trai giưới tắm gội đững ra trùng tu); bia thứ hai (bên phải), làm vào năm Nhâm Thìn (1712), khi ông giữ chức Thượng bảo Tự khanh và giao cho người vợ cả của ông (bà Lê Thị Vệ) khắc dựng. Nội dung ghi lại các thửa ruộng mà ông mua lại của người trong thôn để cúng cho dòng họ và thôn Gôi Mỹ để lo việc hương khói, tế lễ; bia thứ ba (chính giữa), cũng chính do ông Đinh Nho Hoàn soạn, nói về gia cảnh, việc học hành khoa bảng, chốn quan trường. Bia được dựng vào năm Mậu Tý (1708), nội dung được lược dịch trích đoạn như sau: " ... lọt lòng 12 người con, tôi là con thứ. Khoa thi Hội năm Canh Thìn (1700), tôi 30 tuổi, đậu Đệ nhị giáp tiến sĩ, tháng 8 năm Nhâm Ngọ (1702) được bổ làm Sơn Tây xứ, tháng 7 năm Giáp Thân (1704) được bổ làm Đốc trấn Cao Bằng ... vậy xin được khắc vào bia đá từ năm Vĩnh Thịnh thứ 4 (1708)...".
 
Về sau, con cháu khắc vào bia các nội dung đã được ông soạn thảo trước đó về quê lo việc nhà, lập người kế tự, dựng am...cùng bài răn dạy con cháu: " Trung hiếu, chất phác hiền lành, khi tiến thân thì thành kẻ sĩ có nghĩa khí, khi lui về thì người làm ruộng lương thiện. Những kẻ kiêu ngạo ham hố, những kẻ coi thường bề trên, những kẻ hay tranh giành kiện tụng, những kẻ hay cờ bạc thì không thể đến với am này". Và Con cháu cũng thuật lại việc ông đi sứ vào năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715) cùng việc vua ban 2 bài ngự thi quốc âm... 
 
Voi đá.
 
 
Hai con voi đá trong thế chầu, đặt hai bên một bể cạn trước sân trời nhà thượng điện với chất liệu đá thanh xanh. Niên đại được đanh giá cùng thời kỳ với các hiện vật quý trên
 
Bức biển "Tiết Phụ Môn"
 
 
Bà Phan Thị Viên là người vợ thứ, nhưng cũng là người bạn thơ văn của ông, hia ngườ sống với nhau như tri kỷ. Trước khi tử tiết bà có làm một bài thơ khóc chồng bằng chữ Hán, lời lẽ đau xót mà khí khái (bài thơ ghi trong gia phả họ Đinh Nho). Sau khi mất, nhà vua ban bảng vàng với 3 chữ "Tiết Phụ Môn" đền thờ được lập vào năm Đinh Dậu (1717) - đó chính ngôi Đền Gôi Vị hay còn  gọi là Đền bà Tiết Nghĩa.
 
Đền Gôi Vị đã có gần 300 năm tuổi, những hiện vật độc đáo  được đánh giá là một trong những bộ sưu tập hiện vật quý trên địa bàn Hà Tĩnh. Năm 2006, đền Gôi Vị được công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Năm 2016 Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh tiến hành khảo sát lập hồ sơ trích ngang xin ý kiến thỏa thuận của Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch để lập hồ sơ khoa học trình Bộ thẩm định, xét duyệt di tích lịch sử văn hóa quốc gia vào năm 2017.
  
 
Bách Khoa

 
Tham quan ảo 3D
Nghiên cứu - Thảo luận

Tìm hiểu Kim Vân Kiều tân truyện ở Thư viện Vương quốc Anh

Trước đây 20 năm, Kim Vân Kiều tân truyện (còn gọi là Kim Vân Kiều hội bản) đã được giáo sư Nguyễn Văn Hoàn(1) và giáo sư Trần Nghĩa(2) giới thiệu sơ qua hoặc kỹ hơn chút ít. Bản này được đánh giá là “bản Kiều quý”, “chưa có ở nước ta”, tuy nhiên chưa ai đi sâu tìm hiểu. Điều đặc biệt ở bản này là có 146 trang thì trang nào cũng có một tranh minh họa chiếm nửa dưới trang, nửa trên dành in lời Tiểu dẫn (trang 2), một đoạn Truyện Kiều, chú thích bằng chữ Hán và lời tóm tắt bằng chữ Nôm nội dung đoạn Truyện Kiều đó. Sách không ghi tên tác giả cùng năm, nơi ra đời, chỉ thấy “trang bìa trong của sách có ghi mấy chữ tiếng Ý, viết bằng bút sắt ‘Anno 1894’; trang cuối sách ghi dòng chữ tiếng Pháp, cũng viết bằng bút sắt: ‘Paul Pelliot, acheté 432 Fr, Porte Sully, Juin 1929, No 518’. Nếu những ghi chép trên đây là chính xác thì các bản vẽ được hoàn thành vào năm 1894; đến năm 1929, Paul Pelliot, một học giả người Pháp mua được và cuối cùng, sách được nhập vào kho Thư viện Vương quốc Anh”(3). Có điều, tranh minh họa thì tôi cảm thấy có phần ngờ do người Trung Quốc vẽ.

Xem tiếp
Di sản văn hóa

Thư viện phim tư liệu

Bộ đếm lượt truy cập

di tich Nguyen Du

Liên kết Website

Bản quyền © 2015 Nguyễn Du - Danh nhân văn hóa thế giới - Ban quản lý khu di tích Nguyễn Du.
Địa chỉ: Xã Tiên Điền - huyện Nghi Xuân - Tỉnh Hà Tĩnh.
ĐT: 02393 826 599        Đăng ký tham quan: 02393 825 133
Email: [email protected]
Chịu trách nhiệm nội dung: Ban quản lý khu di tích Nguyễn Du
Nêu rõ nguồn nguyendu.org.vn khi đăng bài từ website này.