nguyendu.com.vn
Loading...

Tiếp nhận thêm một số phiên bản mộc bản ghi chép về Đại thi hào Nguyễn Du


Ban quản lý di tích quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm  Đại thi hào Nguyễn Du vừa tiếp nhận thêm  05 phiên bản mộc bản ghi chép về Đại Thi hào Nguyễn  Du từ Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV - Cục Văn thư Lưu trữ nhà nước.
 
(Ảnh 1)
 
Phiên bản mộc bản có kích thước 44 x 24 cm, niên hiệu Ất Sửu, Gia Long năm thứ 4 (1805), quyển 26, cuốn Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, ghi: Đặng Trần Thường dâng sớ cử Tiến Sĩ Triều Lê cũ là Nguyễn Du, hương cống là bọn Nguyễn Trọng Chiếu 14 người, hạ lệnh triều về kinh xét dùng.
 
(Ảnh 2)
 
Phiên bản  mộc bản có kích thước 40 x 23 cm, niên hiệu  Canh Ngọ, Gia Long năm thứ 9 (1810), quyển 40 Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhất kỷ có nội dung: Ngày Đinh dậu xa giá đi tuần Quảng Trị, ngày Tân Sửu đi Quảng Bình, xem làm lỵ sở của dinh. Dụ ký Hoàng Văn Diễn và Cai bạ Nguyễn Du rằng: “Dùng sức dân, nên dè sẻn. Đắp đất đai sai dân làm thì được, còn xây dựng sảnh, thự, nên lấy binh lính mà làm”. Bèn hạ lện cho Hộ bộ thưởng cho những người ứng dịch. Ngày Đinh mùi trở về.
 
(Ảnh 3a)
 

(Ảnh 3b)

 

Hữu Tham tri Lễ bộ là Nguyễn Du chết. Du là người Nghệ An, rộng học, giỏi thơ, giỏi quốc ngữ. Nhưng là người nhút nhát, mỗi khi ra mắt vua thì sợ sệt không hay nói gì. Vua từng dụ rằng: “Nhà nước dùng người, duy có tài dùng, vốn không coi năm bắc khác nhau. Khanh cùng Ngô Vị đã được tri ngộ làm quan đến chức Á khanh, nên điều gì biết thì nói ra hết, đâng điều hay sửa điều dở, để hết chức mình, sao cứ rụt rè hãi, chỉ việc vâng dạ”. Đến bây giờ có mệnh sai sang nước Thanh, chưa đi thì chết, vua thương tiếc, cho 20 lạng bạc, 1 cây gấm Tống. Khi đưa tang về lại cho thêm 30 quan (Mặt khắc 16, 17, quyển 4, cuốn Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ  - ghi chép ở 2 phiên bản mộc bản khác nhau – kích thước 44 x24 cm (3a), 43 x 24 cm (3b))  Niên hiệu Canh Thìn, Minh Mạng  năm thứ nhất (1820).
 
(Ảnh 4)
 
Phiên bản mộc bản có kích thước 32 x 20 cm,  niên hiệu  Minh Mạng năm thứ 13 (1832), mặt khắc 7, quyển 1, cuốn Quốc triều Đăng khoa lục ghi chép về Tiến sỹ Nguyễn Tán như sau: Sắc ban Đệ Tam giáp (Đồng Tiến sĩ xuất thân). Sinh năm Giáp Tý (1894), Quê quán Tiên Điền, Nghi Xuân, Nghệ An (nhà ở Cẩm Chương – Đông Ngạn - Bắc Ninh) (năm 1826, Nghi Xuân được đổi về Hà Tĩnh). Đỗ cử nhân, khoa thi năm Mậu Tý (1828), làm quan tới chức Viên ngoại; bị miễn chức.
 
Đến nay Ban quản lý di tích quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm  Đại thi hào Nguyễn Du đã tiếp nhận 09 phiên bản mộc bản ghi chép về Đại thi hào Nguyễn Du và 01 phiên bản mộc bản ghi chép về Tiến sĩ Nguyễn Tán (gọi Đại thi hào Nguyễn Du bằng Bác) là con trai thứ 10 của Nguyễn Y. Các phiên phiên bản mộc bản nói trên là tư liệu ghi chép những thông tin xác thực về thân thế, sự nghiệp của Đại thi hào Nguyễn Du và Nguyễn Tán nằm trong hệ thống mộc bản triều Nguyễn lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV đã được UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu Thế giới vào năm 2009.
 
 
Bách Khoa

 


Tin tức sự kiện

Tham quan ảo 3D

nguyendu.com.vn

Thư viện phim tư liệu

Bộ đếm lượt truy cập

di tich Nguyen Du

Liên kết Website